Thành tựu trên chặng đường nghiên cứu khoa học
GS.VS Hoàng Quang Thuận sinh ngày 5 tháng 5 năm 1953 tại Quảng Bình đầy nắng, gió và cát – vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời địa linh nhân kiệt, là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần rất độc đáo. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học nên ngay từ nhỏ GS.VS Hoàng Quang Thuận đã rất say mê môn vật lý. Ông nhớ lại: “Sau những buổi học, tôi tìm nhặt những viên pin đã hết điện, gom lại rồi cho và tro bếp ủ nóng, rồi dùng các dây điện nối với bóng đèn làm bóng đèn lóe sáng. Những ánh sáng đầu tiên bắt nguồn từ dòng điện của những viên pin đã hết điện làm cho tôi thích thú”. Ông vốn là người lính trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc làm thông tin liên lạc ông nhặt những mảnh vỡ cây nhiệt đới của Mỹ, tìm các linh kiện điện tử tranzito tụ điện – điện trở dùng làm linh kiện thay thế trong các thiết bị thông tin liên lạc và lắp ráp thành những chiếc radio để nghe tin tức chiến cuộc. Sau chiến tranh, ông trở về giảng đường học đại học. Say mê vật lý là vậy nên theo học đại học ông cũng chọn học khoa vật lý để tiếp tục theo đuổi những đam mê của mình. Tốt nghiệp đại học, ông được phân công công tác tại tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ). Với nhiệt huyết tuổi trẻ và lòng yêu nghề, thầy giáo trẻ Hoàng Quang Thuận luôn hoàn thành tốt trọng trách được giao. Năm 1978, ông đã tìm tòi và nghiên cứu sáng chế thiết bị Định hướng miền QT2 (Quang Thuận thế hệ 2), thiết bị dùng để định hướng các miền cực của các tổ chức tế bào, với vai trò ứng dụng công nghệ điện tử trong y học sau khi thử nghiệm thành công trên động vật, thiết bị đã được đưa vào ứng dụng tại Bệnh viện C Đà Nẵng, Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, Bệnh viện Quân y 268 – Quân khu 4 mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành y học nước nhà.
Với công trình đầu tay này, ông đã được nhận Giải thưởng cao nhất của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ) và được Nhà nước cấp bằng sáng chế. Từ năm 1979, công trình nghiên cứu của ông được ứng dụng ở nhiều tỉnh miền Trung như: Bênh viện Quân y 268 – Quân khu 4, Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, Bệnh viện C Đà Nẵng,… rồi mở rộng ra cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như: Bệnh viện Y học Dân tộc Việt Nam, Bệnh viện 115… Tiếp đó, ông hợp tác với Tập đoàn Y khoa laser Hoa Kỳ nghiên cứu sâu hơn và hoạt động có hiệu quả, các nhà khoa học quốc tế đã tìm ra được những vấn đề rất thiết thực của đề tài này. Thiết bị được đưa vào ứng dụng tại Hoa Kỳ và Philippin.
Tiếp tục triển khai các nghiên cứu về thiết lập sơ đồ các vùng điện cực sinh học trên cơ thể con người. Bằng đề tài khoa học này, ông đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ năm 32 tuổi. Năm 1986, GS.VS Nguyễn Văn Hiệu – nhà khoa học Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng Lê nin cao quý; Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam đã đưa ông đến Viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân nguyên tử và Viễn thám Vũ trụ Đúpna (nước Nga, Liên Xô Cũ) để ông được học tập và hợp tác trao đổi khoa học với Viện Liên hợp Nghiên cứu Vũ trụ Đúpna về thiết bị hiệu ứng laze sinh học. Viện Đúpna gồm có 11 thành viên của các nước XHCN trong đó có Việt Nam. Đây là một thành phố khoa học nghiên cứu về hạt nhân nguyên tử vật lý và các vấn đề khoa học của vũ trụ hiện đại nhất Châu Âu. Thành phố nhỏ Đúpna xinh đẹp, hiền hòa và đậm chất thơ nằm trên bờ sông Vôn-ga, cách Thủ đô Mátxcơva khoảng 120 km về phía Bắc. Năm 1981, nhà bác học thiên tài Đan Mạch Ninx Bo – người sáng lập các quỹ đạo chuyển động các mức năng lượng nguyên tử “Mẫu nguyên tử Bo” đã đến thăm và làm việc tại Viện Đúpna. Nơi đó đã đào tạo và trưởng thành của nhiều nhà khoa học lớn của Thế giới, GS.VS Nguyễn Văn Hiệu và một số nhà khoa học khác của Việt Nam đã trưởng thành từ thành phố mùa xuân này…
GS.VS Hoàng Quang Thuận – Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và GS.TS William A.Staples – Hiệu trưởng trường Đại học Houston ký kết văn bản hợp tác tại trường Đại học Houston Clear – Lake Texas Hoa Kỳ
Ngày 22/01/1997, GS.VS Hoàng Quang Thuận đã ký hợp tác khoa học “Ứng dụng dòng điện hiệu ứng sinh học trong cơ thể con người phục vụ cho y học bằng thiết bị điện tử kỹ thuật số” với GS.BS Nguyễn Tài Thu (Viện trưởng Viện Y học Cổ truyền Việt Nam) với mong muốn đưa những ứng dụng khoa học vào thực hành và sử dụng tại Viện Y học Dân tộc Việt Nam. Thiết bị HT – 2LD thuộc đề tài “ Hiệu ứng dòng điện sinh học trong cơ thể con người phục vụ cho y học” của ông được tiếp tục hợp tác nghiên cứu và phát triển với các nhà khoa học Hoa Kỳ. Năm 2008, ông vinh dự là Giáo sư tại Hoa Kỳ cho đề tài trên.
“Thơ là tiếng nói đầu tiên của tâm hồn khi chạm tới cuộc sống”
GS.VS Hoàng Quang Thuận là một nhà khoa học có uy tín cả trong và ngoài nước với nhiều công trình nghiên cứu được đánh giá cao và được áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Thêm một điều mà GS.VS Hoàng Quang Thuận gây ấn tượng với những ai đã từng tiếp xúc với ông là trong ông còn ẩn chứa một tâm hồn thơ ca. Ông cho rằng định nghĩa khoa học thường khô khan và vô cùng vất vả để chứng minh. Còn thơ thì bay bổng và vô định. Hiện nay, ông là tác giả của ba tập thơ lớn: Thi Vân Yên Tử (1997); Ngọa Vân Yên Tử (2002); Hoa Lư Thi Tập (2010).
Bài thơ “Chùa giải oan” được khắc vào đá Hoa cương nói về lịch sử và cảnh sắc Chùa được đặt ở Chùa giải oan – Yên Tử, T.P Uông Bí, Quảng Ninh (trích “Thi Vân Yên Tử”)
Bài thơ “Hương Xuân” tả cảnh chùa Lân, được đặt trước cổng chùa Lân – Yên Tử, T.P Uông Bí, Quảng Ninh (trích “Thi Vân Yên Tử”)
Hoa Lư thi tập – tập thơ vịnh cảnh cố đô Hoa Lư lấy cảm hứng từ một chuyến hành hương của tác giả tới cố đô Hoa Lư, nơi hơn 1.000 năm trước Đinh Bộ Lĩnh, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, định đô và xây dựng vương triều phong kiến nhà Đinh. Hoa Lư gắn với chiến tích Đinh Bộ Lĩnh thống nhất giang sơn, Lê Hoàn phá Tống, bình Chiêm, giữ gìn nền độc lập đất nước… Tác phẩm văn học nghệ thuật này gồm 121 bài thơ, có thể giúp người đọc hiểu thêm về nền văn hóa truyền thống của Việt Nam qua các triều đại: nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý, mô tả các địa danh hang động kì ảo, các thung lũng thần tiên nơi địa linh nhân kiệt, nơi ghi lại những trang sử của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm, thời kỳ phá Tống, bình Chiêm của nhân dân Đại Cồ Việt. Năm 2010, vào dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, tập thơ Hoa Lư Thi Tập được nghệ sĩ thư pháp Trần Quốc Ẩn, nhiếp ảnh Phạm Tú và tác giả làm thành công cuốn sách độc bản Hoa Lư Thi Tập. Cuốn sách nặng 54kg, kích thước 109 x 70 x10 và dày 270 trang, bìa bằng gỗ gõ đỏ. Cuốn sách đã đạt kỷ lục Việt Nam, hiện cuốn sách được trao tặng và lưu giữ tại Bảo tàng Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội.
Thi Vân Yên Tử của GS.VS Hoàng Quang Thuận là tập thơ thiền gồm 143 bài về Yên Tử được viết một cách hệ thống và phong phú mang nhiều hàm ý sâu xa nhưng lại được thể hiện qua những vần thơ thanh cao, huyền diệu, xa vắng, tĩnh lặng đồng thời lại gần gũi với đời thường. Tập thơ vẽ ra cho độc giả những phong cảnh tuyệt mỹ của núi mây Yên Tử đồng thời soi rọi lại những chặng đường vua Trần Nhân Tông đã đi qua để xây dựng nên Trung tâm Thiền phái Trúc Lâm của Việt Nam. Ngoài ra, độc giả còn được tiếp cận thiền học một cách tự nhiên, dễ dàng và sâu sắc. Năm 2008, trường Đại học Quảng Bình tổ chức Hội thảo với hơn 100 bài tham luận, trường đã chọn ra 21 tham luận đưa vào kỷ yếu “Hội thảo Thi Vân Yên Tử với Hoàng Quang Thuận”. Năm 2011, cuốn sách Độc bản Thi Vân Yên Tử được viết bằng thư pháp và minh họa ảnh do các nghệ sĩ trên cùng tác giả thực hiện. Cuốn sách nặng 120kg, kích thước 125 x 80 x 16, dày 300 trang, bìa bằng gỗ gụ, ở giữa có hình Chùa Đồng. Năm 2012, cuốn sách Độc bản này được xác lập kỷ lục Việt Nam và kỷ lục Châu Á, được trao tặng cho Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Ngày 22/9/2013, cuốn sách Thi Vân Yên Tử đã được Đại học Kỷ lục Thế Giới WRU xác lập tôn vinh giá trị kỷ lục “Cuốn sách là một tài sản quốc gia lưu trữ các giá trị đích thực và danh thắng tuyệt vời của Yên Tử, giúp lưu giữ các hình ảnh quan trọng và các giá trị văn hóa tinh thần cho thế hệ sau”. Ông Thomas Richard William Bain – Phó Chủ tịch Liên minh Kỷ lục Thế giới đánh giá: “Vinh danh cho tập thơ Thi Vân Yên Tử của GS.VS Hoàng Quang Thuận, Đại học Kỷ lục Thế giới tin rằng cũng đã vinh danh cho tất cả những người Việt Nam đang nỗ lực xây dựng và sáng tạo một nền nghệ thuật mạnh mẽ nhưng vẫn bám rễ trên mảnh đất cổ xưa của mình”.
Ngọa Vân Yên Tử là một phần riêng biệt của tập “Thi Vân Yên Tử” (gồm 80 bài). Có thể nói, đây là tập thơ viết về phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và Phật tích của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thơ ông là nỗi niềm, là tấm lòng không phải của riêng tác giả mà trái tim nhà thơ phải đập cùng một nhịp đập với trái tim quần chúng và cả cộng đồng. Sáng tác thơ phải kết hợp tình cảm và lí trí thì mới đem đến cho thơ những cảm xúc sâu sắc. Khi nói về truyền thống của dân tộc nếu không bắt đầu từ tận cùng của cảm xúc thì làm sao GS.VS Hoàng Quang Thuận có viết được những câu thơ:
Vua Đinh Tiên Hoàng
Lên ngôi đế hiệu Đinh Tiên Hoàng
Đất nước an hòa cả giang san
Sánh ngang Hoàng đế vua phương Bắc
Chủ quyền dân tộc được an bang
——————
Mở nền triều chính nước non Nam
Có khác chi Đô Hán Tràng An
Trời Nam nhân kiệt còn lưu mãi
Sóng vỗ ngàn năm nước cửa Hàn
Cảm xúc tạo nên hình tượng lí trí hoà vào tình cảm khiến cho hình tượng thơ cổ sự hài hoà của tình cảm và lí trí. Nhà khoa học kiệt suất Lê Quý Đôn đã từng nói: “Thơ khởi phát từ trong lòng người” nghĩa là thơ phải xuất phái từ tâm hồn, từ tình cảm. Nhà thơ tiếp xúc và phản ánh cuộc sống không phải là những chi tiết, bề bộn của hiện thực mà chủ yếu là để bộc lộ tình cảm cùa mình trước cuộc sống. Thơ có tiếng nói riêng, nó như những lời tâm sự làm sống dậy trong lòng ta những kỉ niệm vui buồn của quá khứ xa xôi. Thơ chính là cuộc sống, là sự phản ánh một nhân cách cao đẹp. Cái đẹp của sự sống luôn luôn biến động, vì vậy thơ sinh ra bởi con người nặng tình với cuộc sống. Thơ ông thấm vào lòng người bởi những cảm xúc chân thực và nhiều mối liên tưởng kín đáo, bằng ý tứ sâu xa, sức quyến rũ của tiết tấu và thanh điệu. Tất cả những yếu tố ấy đi vào lòng người, khắc sâu thêm những tình cảm tạo nên ấn tượng khó phai mờ. Có thể nói, các tác phẩm thơ của GS.VS Hoàng Quang Thuận rất gần gũi nhưng cũng rất cao quý và thoát tục. Đúng vậy, khi con người ta đến với thơ thì tâm hồn sẽ được thanh lọc để trong sáng và cao thượng hơn. Trung tướng, Nhà văn Nguyễn Hữu Ước nhận xét: “Ông có vài trăm bài thơ, bài nào đọc cũng đều có tư tưởng phản ánh đúng cái cốt cách, phản ánh đúng cái tâm linh và phản ánh được mây gió ngàn gắn với các vị trí, điển tích của Yên Tử… đây là điều kỳ lạ”. Và cũng với cuốn sách này, GS.VS Hoàng Quang Thuận – thành viên Hội đồng sáng lập Hội kỷ lục gia Việt Nam, Kỷ lục gia Châu Á là người Việt Nam đầu tiên sở hữu kỷ lục về giá trị nội dung, kỷ lục thế giới. Năm 2012, tạp chí Nhà văn, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” với 21 tham luận của các nhà phê bình văn học.
Đường Vào Hoa Yên
Đường đất Giải Oan vào Hoa Yên
Hành lang rừng mở đến cõi thiền
Hai bên trúc mọc dày san sát
Thấp thoáng xa xa những bóng đền.
Đang trưa không nhìn thấy mặt trời
Mây tụ thành sương từng giọt rơi
Văng vẳng gà rừng chiêm chiếp gọi
Cành cao lay động chú sóc chơi.
(trích trong tập “ Thi Vân Yên Tử”)